trang phục jrai

Trang phục truyền thống của người Jrai ở Gia Lai có “nhiều nét chung, tương đồng từ khâu sản xuất nguyên liệu, phương thức làm ra vải mặc, y phục được làm bằng chất liệu thổ cẩm do người phụ nữ tự dệt, trang phục truyền thống gồm áo, váy dành cho nữ, áo (áo nữ chui đầu, không sẻ cổ, ngắn tay hoặc dài tay), khố dành cho nam, ngoài ra còn có một số vật dụng đi kèm như tấm choàng, khăn đội đầu, đồ trang sức của nữ như hoa tai, vòng cổ, vòng tay.

dân tộc jrai trang phục tây nguyên trang phục dân tộc thiểu số trang phục bahnar trang phục jrai
Đồ Dân Tộc Ê Đê Nam - Trang Phục Jrai Nam
Đồ Dân Tộc Ê Đê Nam - Trang Phục Jrai Nam
Mã: 16604
Thuê: 180.000₫
Bán: 420.000₫ - 420.000₫
Đồ Dân Tộc Ê Đê Nữ- Trang Phục Jrai Nữ
Đồ Dân Tộc Ê Đê Nữ- Trang Phục Jrai Nữ
Mã: 16605
Thuê: 180.000₫
Bán: 420.000₫ - 420.000₫
Đồ Dân Tộc Ede Tây Nguyên - Trang Phục Jrai
Đồ Dân Tộc Ede Tây Nguyên - Trang Phục Jrai
Mã: 16518
Thuê: 180.000₫
Bán: 420.000₫ - 720.000₫

Vài nét về dân tộc Jrai

Giới thiệu về dân tộc Jrai

Dân tộc Jrai có tên gọi khác như Giơ Ray và Chơ Ray. Người Jrai gồm có 5 nhóm địa phương Tơ-buăn, Mthur, Hdung, Chor, A ráp. Người Jrai có tiếng nói gần gũi với tiếng Ê-đê, Chăm, Raglai, Chu-ru, thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo.

Trong quá khứ, dân tộc Jrai đã có sự tổ chức xã hội với vị trí Pơtaoia (Vua Nước) và Pơtaopui (Vua Lửa). Những vị vua này chịu trách nhiệm cúng trời, cúng đất, và cầu xin mưa thuận gió hòa. Trước thế kỷ XI, người Ê Đê và Jrai thường được gọi chung là Rang Ðêy.

Đồng bào dân tộc Jrai
Đồng bào dân tộc Jrai

Dân số và địa bàn cư trú dân tộc Jrai

Dựa trên số liệu điều tra dân tộc thiểu số vào ngày 1/4/2019, dân số của dân tộc Jrai là 513.930 người. Trong đó, có 252.234 nam và 261.696 nữ. Tỷ lệ dân số sống ở khu vực nông thôn của dân tộc này là 89,5%.

Về phân bố địa lý, dân tộc Jrai chủ yếu sinh sống tại các tỉnh Gia Lai, phía tây tỉnh Phú Yên, phía nam tỉnh Kon Tum và phía bắc tỉnh Đắk Lắk. Đây là các tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên của Việt Nam, nơi dân tộc Jrai có một sự hiện diện đáng kể.

dân tộc Jrai chủ yếu sinh sống tại các tỉnh Gia Lai
dân tộc Jrai chủ yếu sinh sống tại các tỉnh Gia Lai

Ngôn ngữ dân tộc Jrai

Ngôn ngữ chính thức của dân tộc Jrai là tiếng Jrai , một ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Mã Lai-Đa Đảo. Đây cũng là một trong năm dân tộc ở Việt Nam sử dụng ngôn ngữ này, và dân tộc Jrai là một trong những dân tộc tại chỗ thuộc khu vực Tây Nguyên.

Vẻ đẹp trang phục dân tộc Jrai

Có thể nói rằng, trang phục của người Jrai khá đơn giản với các kiểu choàng, quấn và áo chui đầu. Đây là loại hình trang phục vừa đặc trưng cho các dân tộc Đông Nam Á vừa tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển sớm của y phục các dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên.

trang phục jrai
trang phục jrai

Cùng với các dân tộc khác tại Gia Lai, trang phục của người Jrai có nét tương đồng từ khâu chế biến nguyên liệu, phương thức dệt vải, kiểu trang phục, màu sắc, hoa văn trang trí và trang sức. Trang phục người Jrai, nam/nữ sử dụng phổ biến các y phục kiểu choàng, quấn, áo chui đầu. Trong loại hình trang phục này, cổ nhất là chiếc khố của nam và váy của nữ. Trang phục nam không cầu kỳ nhưng khá độc đáo.

Trang phục dân tộc Jrai của nam

Về khố, tùy theo vùng tộc người Jrai ở Gia Lai mà đàn ông mặc khố khác nhau, chất liệu vải trang trí hoa văn khác nhau, ví như đi làm họ mặc khố ngắn bằng vải mộc hoặc nhuộm chàm không trang trí hoa văn, nhưng trong các dịp: tiếp khách, nhà có lễ, làng có hội, đi thăm bạn làng khác, đi chơi xa... thì họ lại chọn kiểu khố vạt dài có tua chỉ màu đen và đỏ, trên mặt khố trang trí hoa văn theo rìa dọc khố, đầu khố có đính thêm hạt cườm. Về áo của nam có hai loại, áo có tay và áo không tay.

Khố của nam giới người Jrai
Khố của nam giới người Jrai

Áo không tay của nam/nữ có nhiều điểm giống nhau, trên áo có đường hoa văn từ bả vai chạy dọc xuống hai bên sườn. May loại này đơn giản, vì với khổ vải hình chữ nhật, gập đôi lại, khoét cổ ở giữa đường gấp, khâu 2 mép sườn lại, để lại một đoạn dưới xẻ tà là xong chiếc áo. Áo dài tay, cách may cũng giống áo không tay nhưng được nối thêm hai ống tay áo; trên các đường bả vai, nách, cửa tay có trang trí  các đường viền màu sặc sỡ. Nếu là áo dài tay do các thủ lĩnh (Pơ tao) mặc thì trước ngực có trang trí thêm mảnh vải đỏ hay chỉ đỏ (gọi là ao brung blak).

trang phục nam của dân tộc Jrai
trang phục nam của dân tộc Jrai

Về mền choàng, mùa lạnh đàn ông Jrai  dùng thêm tấm mền choàng người hay bắt chéo trước ngực kiểu chiến binh với hai loại màu chính đen và trắng có chiều ngang chừng 2 mét, chiều dài hơn một chút, được trang trí các đường hoa văn ở đường mép vải, hai đường trang trí ở giữa mền. Ngoài những tấm mền cá nhân, theo lời người già thì ngày trước, người Jrai dệt những tấm mền lớn có thể choàng cho đông người, trang trí nhiều nét hoa văn đẹp, dùng trong lễ hội cộng đồng.

Về khăn, nam sử dụng loại khăn chít đầu màu chàm, khăn quấn quanh đầu dắt mối vào trong hoặc để xõa sau gáy

Trang phục dân tộc Jrai của nữ

Trang phục nữ Jrai khá sắc sảo độc đáo vì nghề trồng bông, lanh, gai dệt vải của người Jrai phát triển sớm hơn các tộc người khác tại địa phương. màu nền và trang trí trên trang phục chị em chế biến từ nguồn nguyên liệu tự nhiên như vỏ cây tơ nung để lấy màu đỏ, lá cây chàm, vỏ cây băl, than củi, bẹ chuối... để tạo màu chàm, đen. Đây là nghề riêng của chị em nên họ thỏa sức sáng tạo và làm đẹp cho phái mình. Về váy, chị em Jrai thường ngày mặc váy chàm, hầu như không trang trí. 

Trang phục nữ của dân tộc Jrai
Trang phục nữ của dân tộc Jrai

Trong các lễ hội thì mặc váy đẹp hơn váy thường ngày vì có trang trí các hoa văn (váy hoa abenpnga). Vẻ đẹp đặc trưng của váy Jrai không phải là những dải hoa văn trang trí nơi hai đầu và chân váy, giữa thân váy mà là tấm vải đáp (bănh) có nhiều hoa văn ở vị trí phần mông của váy. Về áo thì có áo ngắn tay, dài tay, không tay theo thời tiết, dịp sinh hoạt cộng đồng.

Áo đều may kiểu chui đầu, cổ khoét cao, nút mở ở đường bờ vai, hoa văn trang trí chủ yếu ở phần chân gấu áo, hai cánh tay,  ngang ngực, hai vai và nách. Các hoa văn sử dụng đều rực rỡ sắc đỏ. Kèm trang phục là trang sức bằng vòng tay, vòng cổ, vòng chân bằng đồng, bạc, hạt cườm, dây vải.

Phụ nữ ít khi chít khăn, tóc búi gọn gàng sau gáy, trong các lễ hội họ thắt một dải băng dệt hoa văn tinh tế, đầu hai dải tua rua, thắt trên trán vòng cột sau gáy.