Năm 1861, Vương quốc Ý cuối cùng cũng tuyên bố thành lập sau nhiều năm bị chia cắt tàn phá. Nước Ý giờ đây trở thành một đất nước thống nhất, nhưng một số người thì nói rằng đã đến lúc để “tạo ra người Ý”. Nước Ý cần xây dựng một thương hiệu riêng bởi nghệ thuật, lịch sử, văn hóa và, tất nhiên, bằng thời trang.
Người Ý không tồn tại bởi tuyên ngôn yêu nước. Họ chỉ là kết quả của những quyết định mang tính chiến lược và chính trị.
Thời trang góp phần mạnh mẽ đến việc hình thành nhận diện quốc gia, hầu hết từ nửa sau thế kỉ 20, sau Thế chiến thứ II, nhờ nền tảng của nước Cộng hòa Ý.
Vậy nên nước Ý là một hiện thực mới được tạo ra bởi vô vàn những khác biệt kỳ diệu về văn hóa được tích lũy từ thập kỷ này sang thập kỷ khác, để làm nên phong cách Ý chân chính.
Risorgimento – Phong trào thống nhất nước Ý
Phong trào Risorgimento là một giai đoạn tương đối ngắn, chỉ kéo dài khoảng hơn 20 năm, từ 1848 đến 1870. Được dẫn dắt bởi Nhà Savoy và Bá tước Camillo Benso của Cavour, nhà nước thống nhất tự do hiện đại của Ý được sự hỗ trợ từ các nhà trí thức cùng với các quốc gia tiên tiến nhất Châu Âu.
Từ chiếc đầm phong cách Ý đầu tiên được làm bằng nhung và phổ biến trên khắp đất nước Ý, cho đến những chiếc mũ của Neapolitan và Calabrian, được xem như biểu tượng của chủ nghĩa tự do, sang đến phong cách của phong trào ái quốc lấy cảm hứng từ những bộ trang phục trong các vở opera của Verdi, thời trang Ý đã bắt đầu con đường của nó.
Một người phụ nữ và trang phục của bà đã hình thành chuyến đi đầu tiên cho thời trang nước Ý. Bà là nàng thơ, là biểu tượng quyền lực, người tạo cảm hứng cho sự sáng tạo trong văn học và điện ảnh. Virginia Oldoini, nữ bá tước của Castiglione, là hình tượng chuẩn mực cho giai đoạn này.
Bà được Cavour cử tới Hoàng gia Pháp với tư cách là sứ giả của Piedmont và nước Ý, để gặp vua Napoleon III. Nữ bá tước, với sắc đẹp nổi tiếng của mình, đã dành được sự sủng ái của vua Quốc Vương và sự ủng hộ của ông trong cuộc chiến tranh giành độc lập, nhân tố quyết định cho chiến thắng của Ý trước Áo.
Tủ quần áo của bà được lấy cảm hứng từ thời kỳ thanh lịch – lãng mạn cuối cùng: Áo ngực bó chặt và vòng eo thắt cao cho phép những chiếc váy đóng vai trò ấn tượng trong tổng thể trang phục. Bộ váy phồng nhìn thoáng qua như tràng hoa, điển hình của người phụ nữ lãng mạn, những người đã thay đổi hình ảnh thanh lịch thành gợi cảm được tạo nên nhờ đường nét cơ thể của họ.
Bà từng mang những chiếc khăn đội đầu rất cầu kỳ, được tô điểm bởi những viên ngọc trai và hoa. Một trong những mẫu đầm mà bà mặc đã được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Quốc gia Turin năm 1880.
Vương Quốc Ý
Trong khoảng thời gian giữa cuộc thám hiểm của Mille năm 1860 (do một nhóm tình nguyện viên, dẫn đầu bởi Garibaldi) và quyết định chọn Rome làm thủ đô của Vương quốc, giấc mở thống nhất đất nước được hoàn thành.
Umberto I và Margherita là cặp đôi hoàng gia đầu tiên.
Quá trình đô thị hóa ấn tượng của Rome cùng với việc đưa Turin và Milan thành những quận tài chính đã tạo sự thúc đẩy lớn cho thời gian này.
Các phụ nữ giai cấp tư sản là nhân vật trung tâm trong thập kỷ này, được khắc họa qua ống kính của anh em nhà Alinari (Một hãng nhiếp ảnh lịch sử tại Florent) và qua những bức họa của Giovanni Boldini, nghệ sĩ vĩ đại của những quý cô thượng lưu, như Lady Franca Florio của Palermo và Nữ hoàng tóc vàng đáng yêu Margherita Maria Teresa Giovanna của Savoy (người mà vào năm 1787, Emilio Treves, nhà xuất bản và nhà quảng bá cho thời trang Ý đã dành hẳn một bài báo riêng để ngợi ca: “Margherita, The Italian Ladies Journal”).
Margherita đã thành lập một hiệp hội cho các nhà tri thức và nghệ sĩ, những người bị mê hoặc bởi Nữ hoàng đầu tiên của nước Ý. Bà có một gu thẩm mỹ rất tinh tế và hi vọng sẽ chứng kiến sự ra đời của thời trang Ý.
Margherita cải tạo lại ngôi trường truyền thống về ren Burano (tại Venice) nhằm bảo tồn các phương pháp truyền thống, các hoa văn và các mẫu vật cổ xưa. Tuy nhiên, bà cũng bị mê hoặc bởi thời trang Pháp và sử dụng hầu hết các dịch vụ may đo phục trang của người Pháp.
Thập kỷ mới đã mang lại cơ hộ cho hình ảnh phụ nữ được đi vào đời sống xã hội. Với sự xuất hiện của nhiều sự kiện năng động và mang tính xã hội cao hơn từ các lĩnh vực như du lịch, thể thao đã khiến cho thời trang trở nên thực dụng hơn.
Hình ảnh thanh lịch của những quý cô lãng mạn được thêm vào sự quyến rũ một cách gợi cảm mà vẫn tinh tế.
Thiết kế này khiến cho cuộc sống của người phụ nữ dường như thoải mái và thiết thực hơn. Sự thật là những sự hỗ trợ này lại gắn phụ nữ với những chiếc đuôi váy dài lê thê, phủ lên mình những tấm vải dày, những chiếc váy lót, đấy là chưa kể đến những chiếc áo ngực bó chặt.
Năm 1880, giới quý tộc Ý đã giành lại quyền lực và sự hào nhoáng đã mất đi trong khoảng thời gian trước, làm sống lại cái gọi là trường phái suy đồi, chuyển thể bởi Gabriele D’Annunzio trong những tiểu thuyết của ông. Giới thượng lưu đã ẩn mình trong một cái kén xa xỉ, che giấu bản thân dưới danh nghĩa một chủ nghĩa thẩm mỹ và những phong cách làm đẹp mới, từ chối chủ nghĩa cổ điển.
Thời trang thay đổi theo hướng chiết trung. Chiếc váy ngắn trở nên mảnh mai hơn trong hình dáng chứ không phải trong phong cách. Chiếc váy lót bồng bị thay thế bởi “Kidney-bean”, một miếng đệm nhỏ gắn ở sau váy để giảm thiểu khối lượng.
Áo ngực hiển nhiên luôn hiện diện trong tủ đồ của phái nữ, tiếp tục nhiệm vụ tôn lên vóc dáng người phụ nữ. Phần thân trên của chiếc váy tăng cả khối lượng lẫn sự sang trọng. Áo vai phồng lấy cảm hứng từ Thời kỳ Phục hưng trở lại ngoạn mục. Lần này, chúng được làm bằng lụa quý hiếm và được trang trí bằng những đường thêu đa dạng. Màu vàng trở thành gam màu thời trang, đại diện cho sự hoài niệm của nước Nhật, một thị trường mới nổi truyền cảm hứng cho chủ nghĩa chiết trung trong giai đoạn này.
Một trong những nghệ sĩ nổi bật nhất giai đoạn này là Giovanni Boldini. Ông là bậc thầy của sự thanh lịch. Giovanni đã tạo nên bộ sưu tập những bức chân dung lừng danh, hầu hết trong đó là phụ nữ, những người với tâm hồn phóng khoáng được miêu tả bằng những nét vẽ vừa sắc sao vừa mềm mại trên giấy canvas. Những bức vẽ của ông đã thu hút con mắt của những nhà phê bình, không chỉ ở những trang phục thời thượng mà ông minh họa, mà còn ở sự nhận thức về sức sống căng tràn của các nhân vật chính. Ông truyền lại cho chúng ta hình ảnh rực rỡ và gợi mở về một thế giới hiện đại, ở đỉnh cao quyền lực xã hội của nó, huyền thoại Belle Epoque.
Belle Epoque
Năm 1911, Nước Ý kỉ niệm 50 năm Thống nhất đất nước. Quốc gia này được công nhận là một phần của các quốc gia Châu Âu.
Vittorio Emanuele III, đức vua của Ý bấy giờ, đã thể hiện đúng tinh thần trẻ trung và tự tin của tư sản của nước Ý.
Các quý cô vẫn ưa chuộng các mẫu thời trang cao cấp của Pháp (được thiết kế bởi Paul Poiret và đang thống trị thế giới trong thời điểm này).
Dù vậy, nghèo đói vẫn là vấn đề nghiêm trọng và rất nhiều người Ý quyết định đi tìm cuộc sống tươi đẹp hơn ở Mỹ. Các Đảng chính trị mới, những người Công giáo và các nhà hoạt động xã hội, đã gia tăng quyền lực thông qua các cuộc bầu cử vào năm 1913 và họ đã thực sự tác động lớn đến bối cảnh chính trị thời kỳ này.
Trong tâm thế khởi đầu thế kỷ mới, một hình tượng mới của phái nữ cũng ra đời, chủ nghĩa nữ quyền.
Rosa Genoni, một điển hình cho thế hệ phụ nữ mới, đã cố gắng tái hiện và tập hợp lại những tác phẩm nghệ thuật và di sản văn hóa kiệt xuất của người Ý, sáng tạo ra một bộ sưu tập được truyền cảm hứng từ các bậc thầy của thời kỳ Phục hưng, bộ sưu tập này được trưng bày tạo Bảo tàng quốc tế Milan năm 1906.
Trong thời gian chờ đợi, Mariano Fortuny đã tạo ra phương pháp riêng để tạo nếp lụa, với xilanh sáp chạm trổ tại Venice.
Thời trang và ngành công nghiệp bắt đầu liên quan chặt chẽ với nhau. Các xưởng vẽ, thợ may, những concept vải mới được trưng bày tại các triển lãm công nghiệp và lao động tại Turin, với một cái tên bảo chứng rất lớn: một trong những bộ váy của người phụ nữ đẹp nhất thế giới, Lina Cavalieri. D’Annunzio nâng tầm quan trọng của các nữ diễn viên, các người đẹp nổi tiếng, và các ca sĩ, trở thành các diva, các nàng thơ mới. Trên thực tế, Lina Cavalieri, nữ ca sĩ nổi tiếng toàn thế giới, được chọn làm nàng thơ của Piero Fornasetti.
Nghệ thuật ứng dụng nở rộ trên khắp Châu Âu và phong cách tự do sớm được xem như là hiện tượng toàn cầu.
Ngôn ngữ hoa văn phức tạp, mang tinh thần phái đẹp, là kết quả tự nhiên của sự ảnh hưởng thẩm mỹ thế kỷ 19.
Giacomo Puccini và dàn opera của ông là ví dụ điển hình cho sự quan tâm dành cho thị hiếu kỳ lạ và những miền đất bí ẩn.
Thời trang là nghệ thuật ứng dụng và nó đã tìm được chỗ đứng quan trọng, phản ánh tinh thần duyên dáng của phụ nữ Ý. Sự thanh lịch thực sự được xác định bởi việc người phụ nữ có thể thay đổi bao nhiêu lần mỗi ngày: Trang phục buổi sáng, trưa và tối.
Thời kỳ hoàng kim của áo choàng dạ hội bị chi phối bởi các ứng dụng trang trí biểu tượng nhằm mang lại cho phụ nữ những nét quyến rũ lạ thường.
Tầng lớp thượng lưu được giới thiệu đến những cải cách và quy tắc ăn mặc nhất định. Khả năng mua được những mẫu thời trang mới nhất sẽ khẳng định quyền lực của họ. Và quy tắc ăn mặc chỉ dành cho người giàu.
Chủ nghĩa Vị lai
Chủ nghĩa Vị lai là đỉnh cao của đức tin về tương lai và tiếp bước những gì mà chủ nghĩa thực chứng đã ấp ủ trong những thập kỷ trước. Xã hội đương đại đã có nhận thức khác về không gian và thời gian và sự sùng bái tốc độ về cơ bản chính là điểm khởi đầu cho phong trào nghệ thuật tiên phong này.
Tính thực tế và hữu dụng đã trục xuất mãi mãi các chi tiết trang trí thừa thãi trong quá khứ. Tuyên ngôn Vị lai và các sắc lệnh của nó được thể hiện trong nghệ thuật, văn học và dĩ nhiên, trong thời trang.
Nhà thiết kế Thayat tại Florence đã tạo ra bộ jumpsuit mang tên Tuta, một mẫu trang phục thử nghiệm cho các dịp hằng ngày, từ sáng đến tối, cơ bản và thanh lịch, hoàn hảo cho những quý ông quý bà bận rộn.
Sự thành công của những chiếc áo ghi lê đầy màu sắc của Fortunato Depero là một ví dụ khác của thời trang tiên phong, được tạo nên bởi những đường cắt và hình khối năng động, mang lại cho cuộc sống những concept như bất đối xứng hay như việc loại bỏ những quy tắc ăn mặc.
Giacomo Balla cũng góp phần vào đó bằng một loạt các phác thảo để mô tả “trang phục tương lai”, với các đường cắt bất đối xứng, màu sắc sặc sỡ và những hình thù khiếm nhã (đối với giai đoạn đó). Ông cũng đưa những sáng tạo của mình vào những chiếc túi xách của các quý cô. Hình dạng những chiếc túi nên duy trì tính truyền thống, nhưng về khía cạnh trang trí, dự án của Balla vẫn duy trì sự vượt trội trong khả năng trở nên khác biệt và khiêu khích.
Ông cũng đã thiết kế chiếc váy cho con gái Luce của ông, và áp dụng sự năng động hằng ngày trong những bức tranh của ông vào những hoa văn và hình dáng của nó.
Giữa các cuộc chiến
Những thập kỷ giữa 2 Thế chiến chứng kiến sự gia tăng nhu cầu về sự cải tiến trong thời trang Ý trên thị trường. Những cửa hàng thời trang lớn đầu tiên ra đời. UPIM và La Rinascente, được bảo chứng bởi D’Annunzio, đã mở cửa vào năm 1919.
Những sản phẩm được bán trong các cửa hàng này được sản xuất hoàn toàn tại Ý, với các tài nguyên từ Ý và UPIM được thành lập để kiểm chứng tính xác thực của chúng. Hàng may mặc của những xưởng thiết kế và nhà may tại Ý được làm từ các loại vải sản xuất trong giai đoạn tự trị.
Giai đoạn này, chủ nghĩa Phát xít cấm nhập khẩu từ nước ngoài. Các loại sợi đều là nhân tạo, tái chế và được sản xuất độc quyền sử dụng các tài nguyên địa phương.
Sau Thế chiến thứ nhất, thời trang thay đổi đáng kể. Phụ nữ được gọi tên để thay thế công việc của nam giới và cần phải mặc những trang phục thoải mái, cùng với đó là sự phát triển của các trang phục may sẵn. Màu sắc thời trang nhất thời đó là xanh da trời, đen và kaki. Chân váy ngắn đã loại bỏ đi các đường cắt thẳng cản trở việc bước đi nhanh, và các đường gấu váy gia tăng đáng kể. Lấy cảm hứng từ sự nghiêm trang của đồng phục quân đội, thời trang bị thâu tóm bởi những hàng khuy cài dày đặc, cổ cao và nút kim loại.
Áo ngực, loại đồ lót đã tồn tại năm trăm năm, cuối cùng đã biến mất và thời trang bắt đầu tạo khoảng cách với truyền thống, mở ra Kỷ nguyên Hiện đại.
Lần đầu tiên xuất hiện kiểu tóc cắt ngắn của phụ nữ và việc trang điểm trở nên quan trọng hơn, lấy cảm hứng từ các diva trong các vở kịch. Những chiếc đầm không phô bày vòng eo của phái nữ, những chiếc vòng cổ dài được thêm vào các bộ trang phục và lưng được để trần, tăng thêm sự quyến rũ bằng những đường viền nhung và những viên thạch anh lấp lánh.
Những xu hướng mới cũng du nhập từ nước Mỹ, một quốc gia trẻ mới nổi dành được quyền lực nhờ vào chiến thắng trong Thế chiến.
Trang phục mang âm hưởng phương Đông khá phổ biến cuối những năm 20 – thời kỳ vàng son của nước Mỹ. Những buổi dạ vũ theo chủ đề được tổ chức, lấy cảm hứng từ trào lưu Chinoiserie (Trào lưu văn hóa Trung Hoa). Charleston và Fox-trot trở thành những điệu nhảy thịnh hành nhất.
Sức mạnh của nền kinh tế và tinh thần tự do của Mỹ đã đối đầu với sự nghiêm chỉnh trong đồng phục của chế độ chuyên chế, nơi áp đặt quần chúng phải tuân theo trật tự chuẩn hóa và khắc khổ thông qua kỷ luật và bạo lực.
Thực tế là trong những năm 1930, trang phục của phụ nữ phản ánh cấp bậc và mang phong cách quân đội bấy giờ đang càn quét Châu Âu và cả những vùng khác. Cảm hứng Giéc-manh đã được đưa vào những chiếc áo choàng siren dài, đẹp mắt cho buổi tối và trang phục phồng vai cho buổi ngày.
Trong giai đoạn này những bộ phim giáo phái của Ý lăng xê những diva và người mẫu của dòng phim “White telephones” (Dòng phim hài ca nhạc sản xuất tại Ý những năm 30, 40). Những nàng thơ này đã tạo nên xu hướng bởi phong cách và cách hành xử quy cách và chải chuốt của họ. Văn hóa “ngôi sao” được sử dụng như một công cụ tuyên truyền của chủ nghĩa Phát xít.
Nhưng trong thời kỳ này, thật không dễ dàng để trở nên thời thượng, bởi sự hạn chế và khan hiếm hàng hóa, áp đặt bởi chủ nghĩa Phát xít. Sợi rayon và viscose được thay thế cho lụa. Các loại sợi này đều là sợi tổng hợp nhân tạo, được sản xuất để đáp ứng nhu cầu về vật liệu tương tự với giá thành rẻ hơn lụa.
Gucci được phép sử dụng phao bần thay thế cho da và phụ nữ tạo ra những chiếc mũ đặc biệt và tinh tế bằng giấy.
Phụ nữ cùng sử dụng quần áo làm mới lại, vận dụng những sáng tạo của họ để khiến những trang phục lỗi mốt trở nên thời thượng. Đó chính là hoạt động thường ngày của các gia tộc tư sản. Trong số đó, Elsa Schiaparelli là nhân vật tiêu biểu đã tìm ra cách riêng để thể hiện bản thân. Sinh trưởng và học tập tại Rome, Elsa Schiaparelli chuyển tới Paris năm 1992 và mở xưởng thiết kế đầu tiên của bà tại đây. Không tốn nhiều thời gian để phong cách thời trang siêu thực đưa bà trở thành nhà thiết kế thời trang nổi tiếng nhất thế giới.
Nền Cộng hòa
Nước Cộng hòa Ý ra đời vào ngày 2 tháng 6 năm 1946.
Vào ngày 18 tháng 4 năm 1948, Christian Democrats, đảng chính trị Công giáo đã thắng bầu cử và bước vào thời kỳ ổn định quyền lực.
Khủng hoảng kinh tế bắt đầu vào giữ những năm 50. Các tôn giáo của Bắc Ý trở thành nguồn lực chính trong nên công nghiệp. Sự xuất hiện của truyền hình, sự tiến bộ và thay đổi căn bản về lối sống, bị ảnh hưởng bởi sản xuất đại trà và xe hơi nhỏ giá thấp (Fiat 600 và Fiat 500), sự phát triển của đường cao tốc, đưa Ý bước vào một trong những thời kỳ hưng thịnh nhất trong lịch sử.
Cùng thời điểm này, thời trang hiện đại Ý ra đời, cùng với điện ảnh và âm nhạc, nó trở thành một trong những điểm đại diện cho nước Ý.
Tại Florence, những show diễn thời trang được lăng xê bởi Marquis Giorgini từ năm 1951 và sớm trở thành động lực cho nhóm những nhà thiết kế thời trang xuất chúng, đại diện cho tham vọng và vinh quang. Họ có cơ hội để trình diễn những bộ sưu tập đầu tiên của họ trong salon của Giorgini để nhắm đến khách hàng Mỹ.
Marucelli, Simonetta, Fontana, Schuberth, Pucci, Gallotti, Noberasko, Carosa, Fabiani và Veneziani ngay lập tức đã giành được sự ngưỡng mộ trên khắp thị trường quốc tế.
Fernanda Gattinoni mở xưởng thiết kế của bà ngay sau Thế chiến thứ hai và là một trong số ít những nhà thiết kế người Ý được thiết kế trang phục cho các diễn viên người Mỹ, như Lana Turner và Audrey Hepburn.
Biki, tên viết tắt của Birichina bắt đầu sự nghiệp với đồ lót cao cấp và khách hàng yêu thích của cô là Maria Callas.
Rome trở thành địa điểm yêu thích của những ngôi sao điện ảnh Mỹ, những người khoác lên mình những trang phục thiết kế bởi nhà may hàng đầu thành phố này: Sorelle Fontana.
Hàng loạt ngôi sao, nhà báo, diễn viên đều thích thú với mùa hè lấp lánh quyến rũ tại Ý. Điểm nóng tại đây chính là Via Veneto, nơi mà thời trang Ý có thể sánh ngang hàng với vẻ đẹp và chất lượng của đối thủ là thời trang Pháp.
Thời kỳ Văn hóa đại chúng
Thời trang Ý cũng chứng kiến sự xuất hiện của thời trang may sẵn vào những năm 1960.
Thập kỷ này là thời kỳ của sự phát triển nhanh và phi thường trong nghệ thuật và thời trang.
Sự cải tổ văn hóa là điều tất yếu nhờ vào những nhu cầu mới cũng như sức mạnh chi tiêu mới của thế hệ trẻ, đi cùng với sự xuất hiện của văn hóa âm nhạc đại chúng, khơi dậy những khao khát của sức trẻ.
Những người trẻ và một thị trường biến đổi không ngừng yêu cầu một cách tiếp cận mới tới cuộc sống, nghệ thuật cũng như thời trang. Thế hệ đầu tiên sau Thế chiến thứ hai, được xem là sinh ra để ước mơ, với lý tưởng về một cuộc sống trọn vẹn.
Bối cảnh nghệ thuật tại Ý liên kết chặt chẽ với bối cảnh nghệ thuật của toàn Châu Âu. Paris và London dành lại vai trò là những kinh đô thời trang và sáng tạo là từ khóa tạo cảm hứng cho các trào lưu những năm 60.
Các loại sợi vải và nguyên vật liệu mới, sự bùng nổ của những sắc màu rực rỡ, những đường cắt và hình khối táo bạo, ứng dụng hình học của màu trắng đen cũng như những chiếc váy siêu ngắn và gây sốc mở ra những chân trời chưa được khai phá trước đây.
Pierre Cardin là một trong những tạo xu hướng tốt nhất của những năm 1960 và thật ngạc nhiên khi ông là người Ý chính gốc chứ không phải là người Pháp như ông vẫn vờ như vậy.
Những sáng tạo của Germana Marucelli và Alighieri Boetti được tạo cảm hứng từ những trào lưu mới, mang lại sự thanh lịch vừa đủ nhưng cũng đầy tính nghệ thuật cho những mẫu trang phục và những bản in trên vải.
Irene Galitzine, người sinh ra trong một gia đình quý tộc Nga, đã đến Ý để tìm nơi ẩn náu sau Cách mạng tháng Mười và bắt đầu sự nghiệp thời trang của bà tại xưởng thiết kế Fontana ở Rome. Bà sớm mở được xưởng riêng của mình. Thiết kế nổi tiếng nhất của bà là “Pajama palazzo”, chiếc áo hở tay sang trọng và độc đáo cùng với chiếc quần tây ống rộng đã trở thành thương hiệu của bà.
Roberto Capucci bắt đầu làm việc tại Paris, nơi mà ông đã thiết kế và giới thiệu dòng thời trang may sẵn. Sau đó, ông trở nên rất nổi tiếng với những chiếc áo choàng xa hoa, được đặt thiết kế bởi những phụ nữ quý tộc La Mã dành cho những buổi hội hè trên toàn thế giới. Những sản phẩm tinh tế nhất của ông khởi nguồn từ Paris vào những năm đầu thập niên 60, đưa những sáng tạo đầu tiên của ông trở thành kho báu vô giá.
Mila Schön đã mở xưởng thiết kế đầu tiên vào năm 1958. Sáng tạo làm nên thương hiệu của bà là những chiếc váy không đường may và có thể đảo ngược. Bí mật nằm ở những đường may vô hình được giấu vào trong sườn vải. Bà có một gu tuyệt vời đối với các chi tiết in và màu sắc, trong khi đó, kiểu dáng các thiết kế của bà thì vô cùng nữ tính và duyên dáng.
Từ những năm 1970 đến 2000
Trong những năm 70, Milan dần đóng vai trò kinh đô thời trang, nơi được xem là trái tim cuộn chảy của thời trang “Made in Italy”.
Thuật ngữ này được giải thích bởi các nhà thiết kế, những người hiểu được nhu cầu bắt kịp thời đại của phụ nữ.
Sự chuyển tiếp từ thập niên 60 đến 70 đã thay đổi sự nhạy cảm của những nhà thiết kế này, khi họ có khả năng bổ sung vào trong phong cách của mình yếu tố thương mại, sự linh hoạt và thái độ để cảm nhận được tinh thần của thập niên mới, trước khi những người khác làm được.
Valentino, Capucci, Armani, Pucci, Missoni, Krizia, Callaghan, Walter Albini, Basile, Di Camerino đã đưa thương hiệu “Made in Italy” trở thành hiện tượng toàn cầu.
Những năm 1970 rõ ràng là giai đoạn khó khăn, Milan, tâm chấn của những cuộc đấu tranh chính trị và xã hội bi thảm nhất, đã cho thấy thiên hướng trở thành kinh đô thời trang của mình.
Những người phụ nữ trung lưu thích những bộ trang phục bình thường, bởi họ thường xuyên gặp phải những quả trứng thối từ những đoàn người biểu tình, vậy nên họ chọn những trang phục may sẵn, một sự hồi tưởng đến sự thanh lịch của thập niên 60. Những phụ nữ táo bạo nhất thường mặc những bộ áo khoác Afgha, áo parka, quần jean, quần nhung và áo sơ mi. Họ quyết tâm bỏ lại càng xa càng tốt hình mẫu thanh khiết của Doris Day.
Xu hướng đi ngược thời đại này được nhiều thương hiệu đi tiên phong như: Krizia, Missoni, Basile, Walter Albini và Armani. Họ đã chuyển từ khái niệm đơn giản về “ăn mặc sang trọng”.
Những thợ may trở thành stylist, tủ quần áo trở thành một phần của giấc mơ và một hình ảnh có cấu trúc hơn đã phân biệt các nhà thiết kế trên thị trường với trong trí tưởng tượng của khán giả.
Các nhà thiết kế chẳng những để lại dấu ấn quan trọng trong phong cách thời trang, mà còn tạo ảnh hưởng đến nền kinh tế của đất nước.
Sự hưng thịnh của những nhà sản xuất của những năm 1980 như Dolce & Gabbana, chiếm lĩnh thời trang với tài năng tươi mới của họ. Ở Ý, thời điểm khó khăn của sự sợ hãi (chủ nghĩa khủng bố trong nước làm tăng căng thẳng trong quần chúng) đã lên đến đỉnh điểm và thời trang đã đáp trả bằng sự dửng dưng của các nhà thiết kế.
Những màu sắc gây sốc, màu nhuộm axit và sự độc đoán của phụ nữ được thể hiện thông qua các tấm đệm hyperbol. Barbie đã trở lại: sự tôn vinh của cơ thể, tính gợi cảm của nó và hình mẫu huyền thoại, góp phần hình thành một người phụ nữ có vẻ đẹp vô thực, khó nắm bắt.
Đây là thời kỳ hoàng kim của Valentino, Versace, Trussardi, Enrico Coveri, Gianfranco Ferrè, Moschino, Fendi, Laura Biagiotti, Alberta Ferretti.
Một loạt các nhãn hiệu thiết kế hoàn toàn mới là dành được chỗ đứng vững chắc, như Max Mara, Luciano Soprano, Romeo Gigli.
Vào cuối những năm 80, với sự sụp đổ của bức tường Berlin và vụ xô xát Tangentopoli đã gây một cú sốc cho người Ý, Prada đã tìm ra cách thể hiện phong cách thời trang mang tính khái niệm của mình dựa trên sự chết chóc.
Thẩm mỹ của cô là kết quả của việc đánh giá lại những sự xấu xí và khó chịu, đòi hỏi sự thừa nhận tinh thần thể dục thể thao. Đây cũng chính là bí quyết thành công của cô.
Những năm 90 được xem như là thập kỷ của sự suy tàn. Sự sụt giảm tiêu dùng hàng xa xỉ và áo quần thay đổi cách sống của người dân. Sự thoải mái bề ngoài và lý tưởng về nhân quyền không đủ đáp ứng người tiêu dùng. Chủ nghĩa tối giản đã tìm được thời thế của nó, thay cho sự xa xỉ và dư thừa của tủ quần áo cao cấp.
Một thế hệ mới của các nhà thiết kế đầy nhiệt huyết và nổi loạn đang nổi lên: Marras, Gucci (Tom Ford), Alessandro dell’Acqua, Salvatore Ferragamo, Maurizio Galante.
Cái chết của Gianni Versace năm 1997 đã làm rung chuyển thế giới thời trang. Vào cuối thiên niên kỷ, tự do lại xuất hiện và sự phù phiếm dường như đã chấp nhận trở lại. Gu thẩm mỹ đã thay đổi bởi sự xuất hiện của màu sắc rực rỡ và xu hướng lưỡng tính được thay thế bằng sự nữ tính. Các bản in lại của Emilio Pucci đã đánh dấu cho trào lưu cách tân và Roberto Cavalli đã khiến cho sự trở lại của phụ nữ gợi cảm nhất có thể.
Tới nay, thời trang Ý vẫn không ngừng vận động và nên những biểu tượng mới cho làng thời trang thế giới.
Lịch sử thời trang giàu có và cuốn hút của Ý cũng khiến chúng ta không khỏi ngưỡng mộ vì thời hoàng kim đã qua cũng như hào hứng ngóng chờ tương lai rực rỡ của nó.
bởi Quốc Cường vào | 339 lượt xem