QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA KIẾN TRÚC VIỆT
Bài này xin đưa ra nhận xét tổng quan về quá trình phát triển của kiến trúc Việt cùng mối tương quan với kiến trúc các nước đồng văn dựa trên tranh ảnh và hiện vật.
Thời Lý – Trần – Hồ:
Giai đoạn này, kiến trúc một phần kế thừa thời Đường, nhưng phần khác lại mang ảnh hưởng Tống, đặc biệt là kiến trúc cung điện, kinh thành, nội phủ v.v. với đặc điểm là ngói ống, ngói vảy dùng song song, ngói úp nóc chồng lớp hoặc ốp trên gạch vuông làm tích. Đấu củng, hệ cột xà đỡ mái được sử dụng rộng rãi. Hệ thống trang trí trên mái theo kiểu Đường (ngõa quỷ, kalavinka…) được sử dụng. Thiềm mái, rìa mái cong đều và nông. Các tổ vật trang trí gồm đầu rồng, phượng, vịt ngỗng, uyên ương…
(Ảnh trái) Mái trên tháp thời Trần và Lý. Hình dạng của mái về cơ bản tương tự như mái thời Đường, tiêu biểu là tháp Tojii của Nhật (ảnh phải).
Ngói úp nóc
Thời Lý, Trần (và Hồ) các đường tích không xây bằng gạch vữa nối liền các dải tích như thời Lê, Nguyễn sau này, mà được cấu thành từ những mảnh ngói úp nóc xếp chồng lên nhau hoặc úp lên các hàng gạch vuông. Đây là kiểu lợp đường mái phổ biến ở các nước phương Đông, song riêng Việt Nam thì gần như không còn được sử dụng do sự cải biến cấu tạo bộ mái diễn ra vào thời Lê Trịnh.
Ảnh trên: Hiện vật ngói úp nóc thời Lý, Trần. Ảnh dưới: Ngói úp nóc trên kiến trúc ở Hàn Quốc và Nhật Bản.
Đường tích
Đi cùng với việc sử dụng ngói úp nóc làm tích, là việc các đường tích có những đặc điểm và cách phân bố riêng biệt:
Ngói úp nóc lợp 3 đường tích được làm từ cùng một kiểu ngói với ngói lợp mái, nên màu sắc của tích và màu sắc mái là gần như trùng khớp.
Các đường tích cũng không liền một dải mà tách thành ba đoạn rõ rệt, có phần dôi ra ngoài ở mỗi đoạn tiếp giáp.
Những điểm này này rất khác biệt với các kiến trúc thời Lê – Nguyễn còn tồn tại đến ngày nay. Ở những công trình thời Lê – Nguyễn còn tồn tại, tích thường được lợp bằng vữa trắng, khác màu với màu ngói, và 3 đường tích (chính tích, thuỳ tích, và thương tích) chạy nối liền chứ không tách biệt như ở kiến trúc Lý – Trần.
Các đường tích trên hiện vật thời Trần (góc trái dưới) và trên các công trình của Hàn Quốc và Nhật Bản.
Mô hình nhà thời Trần. Sự tách biệt giữa thương tích và thuỳ tích được thể hiện rõ trên mái trung tâm.
Thời Lê Sơ:
Giai đoạn này kế thừa 1 phần từ kiến trúc thời Lý Trần, một phần học hỏi kiến trúc Minh (nhiều khả năng kiến trúc học hỏi là công trình Tử Cấm Thành mang phong cách Minh Sơ, lưu giữ nhiều nét kiến trúc từ thời Tống), có thể thấy điều đó phần nào qua hệ thống tổ vật – linh thú và ngói ống lợp mái
(Trên) Tích thú trên công trình thời Minh ở Trung Quốc. (Dưới) Hiện vật tích thú thời Lê Sơ tại Việt Nam.
Tích thú là những linh thú trên các đường tích.
Thời Đường có Vẫn Thú (hay còn gọi là Si Vẫn hoặc Si Vĩ), là những đầu thú to ở hai cuối chính tích, thường ngoảnh vào, trông xa như hai chiếc sừng trên mái.
Thời Tống xuất hiện một số linh thú trên thương tích nhưng tỉ lệ rất nhỏ so với mái và hầu như không ở trong tư thế ngồi.
Thời Minh – Thanh thịnh hành linh thú dạng ngồi chạy dọc thương tích.
Tại Việt Nam, kiến trúc thời Lý Trần chỉ có vẫn thú và vọng thú (đầu thú to ở cuối thương tích), không có tích thú dạng ngồi chạy dọc thương tích. Sự xuất hiện của tích thú ngồi trên hiện vật thời Lê Sơ cho thấy phần nào sự ảnh hưởng từ kiến trúc Minh.
Thời Lê Trung Hưng:
Song song với hoàng thành Thăng Long thời Lê Sơ mang đậm lối kiến trúc Tống Minh là sự du nhập kiến trúc hậu kỳ triều Minh, mang đến những thay đổi lớn về kết cấu kiến trúc, như việc sử dụng gạch làm vật liệu chủ yếu thay gỗ, mái cắt gọn, thiềm mái dốc hơn và phẳng hơn so với trước, không nông và võng như mái Nhật, Hàn, Đường, Tống, Lý Trần.
Độ rộng của mái
Việc phổ biến kết cấu gạch đá xây tường nhà thay cho kiểu hoàn toàn là khung gỗ như Đường – Tống đã làm giảm sự cần thiết của một hệ thống đỡ mái phức tạp, đồ sộ. Do vậy, hệ thống đấu củng chỉ còn mang tính tượng trưng, thậm chỉ mất hẳn vì mái đã nhỏ dần, áp lực mái đè lên phần thân nhà đã bị giảm đi nhiều. Số lượng cột kèo đỡ mái cũng được tiêu giảm, song song với đó là sự sụt giảm về quy mô độ lớn của kiến trúc.
Từ trái qua phải: Kiến trúc trên hiện vật thời kỳ Bắc thuộc, kiến trúc trên hiện vật thời Lý Trần, kiến trúc trên tranh thời Lê (trên – Đàng Ngoài, dưới – Đàng Trong), kiến trúc thời Nguyễn qua tranh.
So sánh cổng và tường vây nhà cửa, phủ nội của người Việt qua các thời kỳ lịch sử. Qua đây có thể hình dung được phần nào sự thay đổi trong khuôn viên kiến trúc Việt theo thời gian, nổi bật nhất ở phần mái. Thời cổ, cổng và tường vây đều lợp lớp mái rất to và dày. Càng về sau này thì phần mái ở cổng và tường bao dần tiêu biến.
Ngoài ra, đối chiếu đồng đại với các nước khác có cùng hệ thống kiến trúc như Nhật Hàn, nhiều khả năng cổng thời Lý Trần chủ yếu đều bằng gỗ, không giống như thời Nguyễn (và có thể sớm hơn là Lê Trịnh) cổng được làm bằng đá.
Thiềm mái và rìa mái
Cùng với việc độ rộng diềm mái (thiềm) bị rút gọn lại, đường mái bắt đầu cong gập và vút lên ở đầu.
So sánh thiềm mái và rìa mái của kiến trúc Đường Tống (ảnh hưởng lên Lý Trần) và kiến trúc Minh hậu kỳ (ảnh hưởng lên kiến trúc thời Lê Trung Hưng và Nguyễn).
Dãy trên: Mái kiểu Đường Tống. Dãy dưới: Mái kiểu Minh hậu kỳ.
Dạng cổ điển Đường – Tống:
Xuất hiện trong kiến trúc Tử Cấm Thành của Trung Quốc, kiến trúc Việt Nam thời Lý Trần, kiến trúc Nhật Bản, Hàn Quốc, Lưu Cầu
Thiềm mái thoải, võng, có xu hướng vươn ra xa.
Rìa mái thẳng hoặc cong đều đặn, được biểu thị bằng đường màu đỏ trong ảnh trên.
Dạng hậu kỳ triều Minh:
Xuất hiện trong kiến trúc dân gian thời Minh Thanh, kiến trúc Việt Nam thời Lê Trung Hưng và Nguyễn.
Thiềm mái dốc, không võng, phẳng nhưng gãy khúc, ngắn và không vươn xa.
Rìa mái cong đột ngột, khiến góc mái vươn lên rất cao, được biểu thị bằng đường màu vàng trong ảnh trên.
Sự tiến hóa về độ cong và độ dốc mái ở kiến trúc Việt
Từ trái sang phải: kiến trúc thế kỷ thứ 3 thời Bắc Thuộc (mang đậm phong cách Đông Hán), kiến trúc thời Lý Trần (mang đậm phong cách Đường Tống), kiến trúc thời Lê Trung Hưng (mang nét Minh Hậu Kỳ), kiến trúc chùa Bắc Bộ còn tồn tại ngày nay.
Vào thời Bắc thuộc, diềm mái hoàn toàn thẳng và mặt mái “phẳng” kiểu Tần Hán. Sang thời Lý Trần, mặt mái cong nhẹ hơi lõm xuống viền mái cong đều và nông mang phong cách Đường Tống. Sang đến thời Lê Trịnh, mặt mái bắt đầu cụp xuống, viền mái cong gập và đầu mái hơi vút lên. Cuối cùng, mặt mái bị bẻ gập rất mạnh do ảnh hưởng trung kỳ nhà Minh, đường viền mái cong vút lên ở hai đầu như ta thường thấy ở kiến trúc đình chùa Bắc Bộ ngày nay.
Đường tích
(Trái) Đường tích được lợp bằng ngói úp nóc. (Phải) Đường tích được trát vôi vữa.
Trước kia, các đường tích trên công trình Việt được lợp bằng ngói úp nóc, khiến màu tích trùng màu mái, đường tích phân thành nhiều đốt rõ rệt. Đây là kiểu lợp tích phổ biến ở Nhật Bản và Trung Quốc.
Từ thời Lê Trung Hưng về sau, các đường tích được trát bằng gạch quét vôi vữa nên có màu trắng khác hẳn màu mái, các đường chính tích thành tích nối liền thành một dải có dạng gấp khúc. Tuyệt đại đa số kiến trúc Việt ngày nay, cung điện trong cố cung của Hàn Quốc đều sử dụng dạng này.
Ngoài ra, trên sơn tường trên mái Việt rất hiếm thấy hàng ngói gắn thêm, có thể liên quan đến việc làm tích bằng gạch vữa, ngoại trừ một số công trình như gác chùa Hương.
Sự phân hoá giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong
Vì chia cắt nên sự phân hoá giữa 2 miền cũng dần được thấy rõ: Ở Đàng Ngoài thì chỉ cung điện triều đình dùng ngói ống, còn dân gian chuộng ngói vảy, góc mái thường đẩy cong lên, kiểu dáng này vẫn được lưu giữ vào thời Nguyễn ở bắc bộ. Trong khi đó, Đàng Trong chuộng ngói ống, không cong ở góc; nó ảnh hưởng đến khuôn dáng kiến trúc triều đình nhà nguyễn sau này, và rõ nhất là Huế.
Thời Nguyễn:
Cùng với sự phân hóa về văn hóa lối sống sau 200 năm chia tách Đàng Trong Đàng Ngoài, mà kiến trúc thời Nguyễn trở nên rất đa dạng. Không chỉ lưu giữ những đặc điểm kiến trúc từ thời Lê Trịnh, mà kiến trúc thời Nguyễn còn ảnh hưởng rất mạnh mẽ từ kiến trúc Nam Minh, mà dấu ấn của nó thể hiện rất rõ ở hệ thống trang trí mái rất cầu kỳ phức tạp, như lưỡng long chầu nguyệt, tàu lá mái đầu đao, chưa kể còn chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ bởi kiến trúc Pháp, nhất là những chi tiết kiến trúc từ đá.
Tổ vật trang trí mái thời nguyễn nhìn chung có các đặc điểm khá thống nhất: đều cầu kỳ phức tạp với các đồ án tứ linh. Tiêu biểu là đồ án lưỡng long triều nhật, lưỡng phụng triều nhật ở chính tích, lân hoặc ngư rùa ở thùy tích (ở Bắc Bộ còn có dạng tàu đao bẹ lá là 1 dạng dây lá hóa rồng).
bởi Quốc Cường vào | 311 lượt xem